Nam, nữ không đăng ký kết hôn nhưng sống chung như vợ chồng, có con chung, có tài sản chung thì có được công nhận quan hệ hôn nhân?
Bài viết được sự tham vấn bởi Luật sư Nguyễn Quang Trung
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 35/2000/QH10.
Khi nam, nữ có đầy đủ điều kiện kết hôn theo luật định và thực hiện đầy đủ thủ tục đăng ký kết hôn sẽ được công nhận quan hệ hôn nhân theo pháp luật. Tuy nhiên những trường hợp sống chung như vợ chồng từ khi Luật Hôn nhân và gia đình chưa có hiệu lực thì có được xác định là hôn nhân thực tế hay không?
-
Xác định thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân
Căn cứ Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.
Như vậy, để xác định mối quan hệ giữa nam và nữ có được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế hay không cần căn cứ vào tình trạng cũng như thời gian chung sống cũng để áp dụng đúng pháp luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực tại thời điểm đó nhằm xác định đúng quan hệ hôn nhân.
-
Cách xác định quan hệ hôn nhân thực tế qua các giai đoạn
Căn cứ khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau:
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Theo quy định trên, về nguyên tắc, kể từ thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng.
Tuy nhiên, Nghị quyết số 35/2000/QH10 đã có hướng dẫn đối với một số trường hợp đặc biệt như sau:
a. Giai đoạn trước ngày 03/01/1987:
Căn cứ Mục 3a Nghị quyết số 35/2000/QH10 như sau:
Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn.
Theo quy định trên, nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì việc làm thủ tục đăng ký kết hôn là không bắt buộc và quan hệ hôn nhân này được công nhận là hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận.
b. Giai đoạn từ 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001:
Căn cứ Mục 3b, Nghị quyết số 35/2000/QH10 như sau:
Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003.
Quy định trên được hiểu rằng, nếu việc sống chung như vợ chồng được xác lập trong giai đoạn từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 thì để được pháp luật công nhận là vợ chồng thì phải tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm, cụ thể, từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003.
Sau thời hạn nêu trên, nếu không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì không được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.
c. Giai đoạn từ ngày 01/01/2001 trở đi:
Đối với trường hợp này, thời điểm bắt đầu sống chung như sợ chồng là khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có hiệu lực thi hành.
Vì vậy căn cứ Điều 11 Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nam nữ sống chung như vợ chồng không được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng. Đồng thời căn cứ Mục 3c Nghị quyết số 35/2000/QH10, trường hợp này, nếu có đơn ly hôn thì tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.
Việc xác định nam nữ có được pháp luật công nhận là vợ chồng hay không rất quan trọng trong các vụ án ly hôn, chia tài sản sau ly hôn, chia thừa kế.
Chính vì vậy cần xác định đúng thời điểm chung sống, có xác lập quan hệ hôn nhân hay không? và áp dụng đúng pháp luật để có hướng giải quyết phù hợp.