Người lao động ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, nhưng thời gian làm việc mỗi ngày chỉ 4 giờ từ thứ 2 đến thứ 6, với mức lương 2 triệu đồng/tháng thì doanh nghiệp và NLĐ có phải tham gia BHXH không?
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13;
- Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13;
- Nghị định số 157/2018/NĐ-CP.
-
Làm việc không trọn thời gian tham gia bảo hiểm xã hội như thế nào?
Căn cứ Điều 2 Khoản 1 Điểm a, b Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm có NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 1 tháng trở lên:
“Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;”
Ngoài ra, căn cứ Điều 34 Bộ luật Lao động, NLĐ có thể thoả thuận với NSDLĐ làm việc không trọn thời gian, tuy nhiên vẫn được hưởng lương, các quyền và nghĩa vụ như người lao động làm việc trọn thời gian, quyền bình đẳng về cơ hội, không bị phân biệt đối xử, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động”
Như vậy, trường hợp thực tế ở trên, NLĐ mặc dù làm việc chỉ 4 giờ mỗi ngày nhưng theo HĐLĐ không xác định thời hạn. Do đó, doanh nghiệp và NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định pháp luật.
-
Làm việc không trọn thời gian nhưng vẫn phải tuân thủ mức lương tối thiểu vùng
Căn cứ Điều 85 Khoản 3 Luật Bảo hiểm xã hội:
“Điều 85. Mức đóng và phương thức đóng của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
3. Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng bảo hiểm xã hội tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng bảo hiểm xã hội, trừ trường hợp nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.”
Theo quy định trên, nếu NLĐ không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó
Vì vậy, trường hợp NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, nếu có đủ số ngày làm việc trong tháng theo quy định thì NSDLĐ và NLĐ phải đóng BHXH bắt buộc với mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH theo HĐLĐ.
Việc NSDLĐ trả lương 2.000.000 đồng/tháng với lý do NLĐ chỉ làm việc 4 giờ/ngày là trái quy định pháp luật về mức lương tối thiểu vùng đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ.
Mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm chúng tôi có tư vấn này được quy định tại Nghị định số 157/2018/NĐ-CP.
Căn cứ Điều 5 Khoản 1 Nghị định số 157/2018/NĐ-CP:
“Điều 5. Áp dụng mức lương tối thiểu vùng
1. Mức lương tối thiểu vùng quy định tại Điều 3 Nghị định này là mức thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp và người lao động thỏa thuận và trả lương, trong đó mức lương trả cho người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường, bảo đảm đủ thời giờ làm việc bình thường trong tháng và hoàn thành định mức lao động hoặc công việc đã thỏa thuận phải bảo đảm:
a) Không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm công việc giản đơn nhất;
b) Cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm công việc đòi hỏi người lao động đã qua học nghề, đào tạo nghề theo quy định tại khoản 2 Điều này”