Người được thi hành án có quyền nộp đơn thi hành án trong thời hạn quy định để bảo vệ quyền lợi của mình
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014;
- Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Thi hành án là việc thực thi các phán quyết của tòa án trong bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Các đương sự trong vụ án có thể tự thỏa thuận việc thi hành án hoặc người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thực hiện thi hành án.
-
Thời hạn thi hành án dân sự
Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Nếu người phải thi hành án không thực hiện các phán quyết trong bản án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án.
Việc yêu cầu thi hành án phải được thực hiện trong thời hạn quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 như sau:
Điều 30. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
3. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Theo quy định trên, yêu cầu thi hành án phải được thực hiện trong thời hạn 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ. Thời hạn này được gọi là thời hiệu thi hành án.
-
Hệ quả của việc hết thời hạn thi hành án
Theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã nêu, thời hiệu thi hành án là 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Căn cứ khoản 5 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 như sau:
5. Thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án theo quy định của Luật này.
Như vậy, theo các quy định trên, nếu hết thời hiệu yêu cầu thi hành án (5 năm) thì người được thi hành án bị mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết đinh có hiệu lực pháp luật.
-
Yêu cầu thi hành án quá hạn như thế nào?
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 nêu trên, nếu thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết mà người được thi hành án mới nộp đơn yêu cầu thi hành án thì được giải quyết theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau:
Điều 4. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
1. Đương sự có quyền yêu cầu thi hành án trong thời hiệu yêu cầu thi hành án quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
2. Trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn đến việc không thể yêu cầu thi hành án trong thời hiệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật Thi hành án dân sự thì đương sự có quyền đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xem xét, quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu thi hành án quá hạn.
3. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa;
b) Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
4. Việc yêu cầu thi hành án quá hạn được thực hiện theo quy định tại Khoản 1, 2 và 3 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự, nêu rõ lý do, kèm theo tài liệu chứng minh lý do không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn. Tài liệu chứng minh gồm:
a) Đối với trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc do đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế hoặc do trở ngại khách quan xảy ra tại địa phương nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cuối cùng hoặc nơi cư trú khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp quy định tại các Điểm b, c, d, đ và e Khoản này;
b) Đối với trường hợp tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có tóm tắt hồ sơ bệnh án được cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ cấp huyện trở lên xác nhận và tài liệu kèm theo, nếu có;
c) Đối với trường hợp do yêu cầu công tác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị hoặc giấy cử đi công tác của cơ quan, đơn vị đó;
d) Đối với trường hợp do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của cơ quan đã ra bản án, quyết định, cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
đ) Đối với trường hợp hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa đối với tổ chức phải thi hành án thì phải có xác nhận của cơ quan ra quyết định hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa.
e) Đối với các trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan khác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tài liệu hợp pháp khác để chứng minh.
Xác nhận của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thể hiện rõ địa điểm, nội dung và thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.
Theo quy định trên, nếu vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án trễ hạn thì họ phải nêu rõ lý do, kèm theo tài liệu chứng minh lý do không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn. Khi đó đơn yêu cầu thi hành án quá hạn vẫn có thể được xem xét chấp nhận.