Phát luật hình sự có những quy định mang tính chất nhân đạo, khoan hồng đối với người phạm tội, đặc biệt người phạm tội có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Nghị định số 02/2014/NĐ-CP;
- Nghị định số 134/2016/NĐ-CP;
- Thông tư số 26/2014/TT-BQP;
- Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP.
Chúng tôi nhận được câu hỏi như sau:
Chào luật sư, tôi thấy tại điểm b khoản 2 Điều 29 Bộ luật Hình sự có quy định người mắc bệnh hiểm nghèo thì được miễn trách nhiệm hình sự. Vậy nếu bị mất năng lực hành vi thì có được coi là bệnh hiểm nghèo không?
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
Theo quy định trên, người mắc bệnh hiểm nghèo khi đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Pháp luật hiện hành có nhiều văn bản quy định về bệnh hiểm nghèo cụ thể như sau:
Căn cứ khoản 4 Điều 3 Nghị định số 02/2014/NĐ-CP như sau:
Người mắc bệnh hiểm nghèo là người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong hủi, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS hoặc bệnh hiểm nghèo khác theo quy định của Bộ Y tế.
Căn cứ Phụ lục IV Nghị định số 134/2016/NĐ-CP, danh mục 42 bệnh hiểm nghèo bao gồm:
Ung thư; Nhồi máu cơ tim lần đầu; Phẫu thuật động mạch vành; Phẫu thuật thay van tim; Phẫu thuật động mạch chủ; Đột quỵ; Hôn mê; Bệnh xơ cứng rải rác; Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ; Bệnh Parkinson; Viêm màng não do vi khuẩn; Viêm não nặng; U não lành tính; Loạn dưỡng cơ; Bại hành tủy tiến triển; Teo cơ tiến triển; Viêm đa khớp dạng thấp nặng; Hoại thư do nhiễm liên cầu khuẩn tan huyết; Thiếu máu bất sản; Liệt hai chi; Mù hai mắt; Mất hai chi; Mất thính lực; Mất khả năng phát âm; Thương tật toàn bộ và vĩnh viễn; Suy thận; Bệnh nang tủy thận; Viêm tụy mãn tính tái phát; Suy gan; Bệnh Lupus ban đỏ; Ghép cơ quan (ghép tim, ghép gan, ghép thận); Bệnh lao phổi tiến triển; Bỏng nặng; Bệnh cơ tim; Bệnh Alzheimer hay sa sút trí tuệ; Tăng áp lực động mạch phổi; Bệnh rối loạn dẫn truyền thần kinh vận động; Chấn thương sọ não nặng; Bệnh chân voi; Nhiễm HIV do nghề nghiệp; Ghép tủy; Bại liệt.
Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP như sau:
Mắc bệnh hiểm nghèo là trường hợp mà bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện quân đội cấp quân khu trở lên có kết luận là người được hưởng án treo đang bị bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ trướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.
Căn cứ Thông tư số 26/2014/TT-BQP, danh mục bệnh hiểm nghèo như sau:
- Các bệnh ung thư
Gồm ung thư các loại đã hoặc chưa được điều trị, phát triển đến giai đoạn cuối (tại chỗ khối u xâm lấn rộng, đã có di căn ở nhiều nơi trong cơ thể, có nhiều biến chứng, thể trạng suy kiệt, nằm một chỗ). Tiên lượng xấu, thời gian sống còn ngắn.
- Các bệnh hệ thần kinh
Các tổn thương hệ thần kinh trung ương do nhiều nguyên nhân để lại di chứng không hồi phục: Liệt vận động tứ chi, liệt hai chi dưới, không còn khả năng tự ngồi dậy đi lại được, cơ thể suy kiệt, phải có người chăm sóc y tế thường xuyên liên tục.
Tình trạng sa sút trí tuệ nặng, mất trí nhớ hoàn toàn, trạng thái mất vỏ não phải chăm sóc y tế liên tục, thường xuyên.
Mất trí hoàn toàn, trạng thái mất não sau chấn thương sọ não.
Bệnh Parkinson giai đoạn di chứng, phải có người chăm sóc y tế.
Động kinh cơn lớn (toàn bộ), cơn rất mau hoặc liên tục.
- Các bệnh về gan
Xơ gan giai đoạn mất bù: Có cổ trướng mức độ lớn, thường xuyên; biến chứng chảy máu tiêu hoá do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản, tái phát nhiều lần; hội chứng não – gan – thận; cơ thể suy kiệt nặng, không còn khả năng tự phục vụ.
- Các bệnh hệ tiết niệu
Suy thận mạn giai đoạn 4 mất bù phải lọc máu chu kỳ từ 12 giờ lọc/1 tuần trở lên, thiếu máu nặng, có biến chứng xuất huyết dưới da, tiêu hóa nhiều lần; cơ thể suy kiệt nặng, cần có người giúp đỡ.
- Các bệnh chuyển hoá
Đái tháo đường týp I, II giai đoạn cuối, đã có biến chứng nặng ở các cơ quan đích (mắt, tim, thận, mạch máu) gây ảnh hưởng đến sức khoẻ nghiêm trọng, cần có người giúp đỡ thường xuyên.
- Các bệnh hệ hô hấp
Các bệnh phổi mạn tính (Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính-COPD; khí phế thũng đa tuyến nang týp A; xơ phổi, bụi phổi rộng; lao xơ hang, có BK kháng thuốc) đã chuyển sang giai đoạn mất bù, có nhiều biến chứng nặng nề như: Suy hô hấp mất bù với những đợt bùng phát nặng, thường xuyên; cơ thể suy kiệt nặng; mất khả năng tự phục vụ.
- Các bệnh hệ tuần hoàn
Suy tim độ 4 mất bù hoàn toàn do nhiều nguyên nhân khác nhau, không hồi phục khi điều trị; khó thở thường xuyên, không tự đi lại được.
- Các bệnh hệ cơ, xương, khớp
Bệnh nhược cơ, điều trị không hiệu quả, phải thở máy dài ngày.
Các bệnh khớp đã có di chứng biến dạng và cứng nhiều khớp, hạn chế vận động toàn thân, không đi lại được, mất khả năng tự phục vụ.
- Hội chứng suy giảm miễn dịch
Nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn có triệu chứng lâm sàng (AIDS), cơ thể suy kiệt nặng.
Như vậy, việc xác định một người mắc bệnh hiểm nghèo có thể áp dụng các quy định nêu trên. Trong đó tình trạng mất năng lực hành vi không được coi là một bệnh hiểm nghèo.
Tuy nhiên, người mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình khi phạm tội thì có thể được xem xét loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.