Cá nhân có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho người khác. Nếu không có di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực thì việc chia thừa kế được thực hiện theo quy định pháp luật chung.
Bài viết được sự tham vấn bởi Luật sư Nguyễn Quang Trung
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Dân sự năm 2015.
Chúng tôi nhận được câu hỏi như sau:
Gia đình tôi có vấn đề muốn hỏi luật sư là ông bà nội tôi đã mất được gần 5 năm mà không có di chúc, ông bà có 3 người con thì tài sản của ông bà được chia như thế nào? Bác tôi có quyền kiện tôi để chia nhà tôi đang ở không vì trước là ông bà sống cùng với tôi?
Theo quy định pháp luật, cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Nếu di chúc không có hiệu lực hoặc không có di chúc thì tài sản của người chết sẽ được chia theo các quy định chung của pháp luật cho các hàng thừa kế.
-
Người chết không để lại di chúc thì di sản được chia như thế nào?
Căn cứ khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
- Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Theo quy định trên, nếu người chết mà không có di chúc, hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản của họ sẽ được chia theo pháp luật.
Căn cứ Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Theo quy định trên, việc chia thừa kế theo pháp luật được thực hiện trên cơ sở mối quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng và theo thứ tự hàng thừa kế được quy định tại khoản 1 Điều 651 nêu trên và những người thừa kế trong cùng một hàng thì được hưởng thừa kế như nhau.
Với trường hợp cụ thể trong câu hỏi nêu trên, hàng thừa kế thứ nhất của ông bà nội là 3 người con vẫn còn sống. Vì vậy:
- 3 người con của ông bà là những người được hưởng thừa kế theo pháp luật. Di sản của ông bà để lại sẽ được chia đều cho 3 người con này.
- Chưa phát sinh quyền thừa kế của những hàng thừa kế thứ hai và thứ ba.
Căn cứ Điều 660 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
Điều 660. Phân chia di sản theo pháp luật
- Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
- Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Theo quy định trên, đối với tài sản là nhà, đất thì:
- Những người thừa kế có thể chia trực tiếp nhà, đất để tiếp tục sử dụng.
- Nếu nhà, đất không thể chia nhỏ hoặc nếu có nhu cầu thì những người thừa kế có thể thỏa thuận định giá nhà, đất để chia. Theo đó người nào nhận nhà, đất thì trả tiền cho người còn lại; hoặc tất cả cùng bán nhà, đất để chia thừa kế bằng tiền.
-
Trường hợp di sản bị hạn chế phân chia?
Căn cứ Điều 661 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
Điều 661. Hạn chế phân chia di sản
Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.
Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.
Theo quy định trên, cần lưu ý: di sản thừa kế có thể bị hạn chế phân chia trong trường hợp:
- Người chết có lập di chúc ghi rõ việc hạn chế chia di sản;
- Hoặc theo thỏa thuận hạn chế chia di sản của tất cả những người thừa kế.
-
Có được kiện đòi chia di sản thừa kế?
Quyền thừa kế là một quyền dân sự của cá nhân dựa trên quan hệ huyết thống và nuôi dưỡng. Nên về nguyên tắc, nếu một cá nhân có quan hệ huyết thống với người đã chết thì cá nhân đó có quyền hưởng thừa kế di sản của người đã chết để lại.
Vì vậy, nếu di sản của người chết chưa được phân chia, hoặc được phân chia trái quy định pháp luật thì người thừa kế hợp pháp có quyền khởi kiện để chia thừa kế.
Căn cứ Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
Điều 623. Thời hiệu thừa kế
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
- Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
- Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
- Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định trên: tính từ thời điểm người để lại di sản chết, người thừa kế có quyền kiện đòi chia thừa kế trong thời hạn như sau:
- 30 năm nếu di sản thừa kế là bất động sản;
- 10 năm nếu di sản thừa kế là động sản kể từ thời điểm người để lại di sản chết.
Sau thời hạn trên, nếu người thừa kế không khởi kiện đòi chia di sản thì di sản đó thuộc về người thừa kế đang quản lý.