Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về việc tặng cho tài sản, việc đòi lại nhà đất đã tặng cho người khác phụ thuộc vào một số điều kiện cụ thể.
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Luật Đất đai năm 2024.
-
Quy định chung về tặng cho nhà đất
Hợp đồng tặng cho: Căn cứ Điều 457 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù. Bên được tặng cho cũng phải đồng ý nhận tài sản.
Hình thức hợp đồng: Căn cứ Điều 459 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực, hoặc phải đăng ký. Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi đã được công nhận và đăng ký theo quy định của pháp luật.
-
Trường hợp đòi lại nhà đất đã tặng cho
Đòi lại khi tặng cho có điều kiện:
Nếu hợp đồng tặng cho có kèm theo điều kiện mà bên nhận không thực hiện điều kiện này, thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản. Điều 462 Bộ luật Dân sự quy định về việc tặng cho tài sản có điều kiện, trong đó bên tặng cho có thể yêu cầu bên nhận thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ.
Ví dụ: Nếu cha mẹ tặng cho con đất với điều kiện con phải chăm sóc cha mẹ, nhưng con không thực hiện nghĩa vụ đó, cha mẹ có quyền đòi lại đất.
Đòi lại khi hợp đồng vô hiệu:
Nếu hợp đồng tặng cho không tuân thủ các quy định về hình thức (không lập thành văn bản, không công chứng, chứng thực), hoặc có sự gian dối, đe dọa, cưỡng ép, thì hợp đồng đó có thể bị tuyên vô hiệu. Khi đó, các bên có thể khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015.
-
Kết luận
Nếu việc tặng cho nhà đất đã thực hiện đúng quy định pháp luật và không có điều kiện kèm theo thì bên tặng cho không có quyền đòi lại tài sản.
Tuy nhiên, trong trường hợp có điều kiện mà người được tặng cho không thực hiện điều kiện đó hoặc hợp đồng bị vô hiệu, bên tặng cho có thể yêu cầu hoàn trả nhà đất đã tặng.