Người phạm tội hình sự được áp dụng tình tiết giảm nhẹ sẽ có mức hình phạt nhẹ hơn so với mức hình phạt thông thường
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Chúng tôi nhận được câu hỏi như sau:
Em muốn hỏi nếu gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, người phạm tội là lao động chính lại đang nuôi con nhỏ thì có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?
-
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì?
Khi giải quyết một vụ án hình sự, các cơ quan tố tụng luôn xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Các tình tiết này là một căn cứ để viện kiểm sát đề xuất mức hình phạt, cũng như để tòa án đưa ra hình phạt phù hợp.
Nếu được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thì người phạm tội sẽ được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn mức hình phạt thông thường.
Do vậy, người phạm tội có thể được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ. Đồng thời tòa án có thể cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ khác mà Bộ luật Hình sự chưa quy định.
-
Tình tiết cụ thể nào được coi là giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?
Căn cứ Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 các tình tiết cụ thể sau đây được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội:
- a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- m) Phạm tội do lạc hậu;
- n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- r) Người phạm tội tự thú;
- s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
- u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ thì có lợi cho người phạm tội và thể hiện được tính chất khoan hồng của Nhà nước. Do vậy, tòa án cũng có thể xem xét thêm việc đầu thú hoặc các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Lưu ý:
Nếu trong một tội danh đã có quy định các tình tiết nêu trên là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì các tình tiết này sẽ không còn được coi là tình tiết giảm nhẹ.
Trong câu hỏi cụ thể nêu trên, tình tiết gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, người phạm tội là lao động chính, đang nuôi con nhỏ không phải là tình tiết giảm nhẹ được quy định cụ thể nêu trên.
Tuy nhiên, khi đánh giá hành vi phạm tội, cần xem xét đến nhiều yếu tố khác như:
- Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội;
- Tâm lý và nhận thức của người phạm tội;
- Việc trừng phạt người phạm tội cần mang tính răn đe, nhưng cũng cần có tính khoan hồng, đồng thời bảo vệ quyền lợi của những người phụ thuộc của người phạm tội, …
Do đó, người phạm tội vẫn có thể được tòa án xem xét, cân nhắc áp dụng các tình tiết này làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
-
Các tình tiết giảm nhẹ chỉ áp dụng cho pháp nhân thương mại
Các tình tiết giảm nhẹ nêu trên chỉ được áp dụng cho cá nhân phạm tội hình sự.
Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội hình sự thì sẽ áp các tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại Điều 84 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
- a) Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- b) Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- c) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- d) Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
- đ) Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Ngoài ra, tòa án có thể xem xét thêm các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ cho pháp nhân thương mại phạm tội, nhưng phải ghi rõ lý do áp dụng tình tiết đó trong bản án.
Lưu ý:
Nếu trong một tội danh đã có quy định các tình tiết nêu trên là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì các tình tiết này sẽ không còn được coi là tình tiết giảm nhẹ.