Người thực hiện hành vi gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Bộ luật Hình sự có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong những trường hợp nhất định.
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Chúng tôi nhận được câu hỏi như sau:
Luật sư cho tôi hỏi, nếu trường hợp gây thương tích cho người khác nhưng chỉ là phòng vệ chính đáng vì nguyên nhân là do bị hại đánh trước thì có bị đi tù không ạ?
Thực tế khi giải quyết vụ việc có dấu hiệu hình sự, các cơ quan chức năng sẽ xem xét các hành vi khách quan của người thực hiện hành vi và người bị thiệt hại, cũng như xem xét các yếu tố khác như: nguyên nhân dẫn đến hành vi nguy hiểm, động cơ và mục đích của hành vi của mỗi người. Từ đó, cơ quan chức năng mới có căn cứ để quyết định có khởi tố vụ án và truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi hay không.
Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định 07 trường hợp mà người thực hiện hành vi nguy hiểm sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
-
Sự kiện bất ngờ
Căn cứ Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp:
- Không thể thấy trước hậu quả;
- Hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.
-
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thực hiện hành vi trong khi:
- Đang mắc bệnh tâm thần;
- Mắc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
-
Phòng vệ chính đáng
Căn cứ Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Về nguyên tắc, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Tuy nhiên, người thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nếu:
- Thực hiện hành vi chống trả, phòng vệ nhưng quá mức cần thiết.
-
Tình thế cấp thiết
Căn cứ Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Về nguyên tắc, hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Tuy nhiên, người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự nếu:
- Thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết.
-
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Căn cứ Điều 24 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
Tuy nhiên, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự nếu:
- Gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết.
-
Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ
Căn cứ Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Tuy nhiên, người thực hiện hành vi gây thiệt hại vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nếu:
- Không áp dụng đúng quy trình, quy phạm;
- Không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa.
-
Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Căn cứ Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
- Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Lưu ý: Quy định này không áp dụng đối với 3 tội phạm sau đây:
- Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược;
- Tội chống loài người;
- Tội phạm chiến tranh.
Với 3 tội phạm nêu trên, mặc do người thực hiện hành vi là do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, nhưng người thực hiện hành vi vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.