Cha mẹ tặng cho con nhà đất là giao dịch rất phổ biến trong xã hội. Tuy nhiên, việc này đôi khi dẫn đến mâu thuẫn giữa các thành viên gia đình nếu còn những người con khác
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Luật Đất đai năm 2013;
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP;
- Thông tư số 02/2015/TT-NTNMT.
Trong gia đình có nhiều con, việc cha mẹ tặng cho tài sản cho một người con mà không có sự đồng ý của những người con khác có thể gây ra mâu thuẫn và tranh chấp tài sản. Vậy cha mẹ cho con nhà đất có cần chữ ký, ý kiến của những người con khác hay không? Về nguyên tắc, tài sản thuộc quyền sử dụng, quyền sở hữu của ai thì người đó có quyền định đoạt. Do vậy, sẽ có các trường hợp sau đây:
-
Nhà đất là tài sản chung của cha, mẹ
Theo quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản chung của vợ, chồng là tài sản chung hợp nhất và có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Ngoài ra, căn cứ Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc định đoạt tài sản chung là bất động sản phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.
Như vậy, nếu nhà đất là tài sản chung của cha mẹ, thì khi cha mẹ tặng cho con thì cha mẹ có toàn quyền quyết định mà không cần ý kiến đồng ý hay ký tên của những người con khác.
-
Nhà đất là tài sản chung của hộ gia đình
Căn cứ Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Căn cứ Khoản 1 Điều 64 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP:
1. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên.
Căn cứ Khoản 5 Điều 14 Thông tư số 02/2015/TT-NTNMT:
5. Người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự quy định tạiKhoản 1 Điều 64 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CPchỉ được thực hiện việc ký hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật
Theo quy định trên, hộ gia đình cũng là một chủ thể có quyền sử dụng đất. Nên việc tặng cho nhà đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình cần phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên trong hộ. Do vậy, trường hợp này cha mẹ không có quyền tự mình tặng cho nhà đất cho một thành viên nào đó trong hộ gia đình, mà cần có sự đồng ý của tất cả những thành viên còn lại trong hộ.
Nếu các thành viên hộ gia đình là các con thì việc tặng cho nhà đất cần sự đồng ý của tất cả các con; nếu có người con không thể ký vào hợp đồng tặng cho thì phải có văn bản uỷ quyền hoặc văn bản đồng ý tặng cho được công chứng hoặc chứng thực