Trong một số trường hợp xét thấy không có căn cứ để cho ly hôn, tòa án sẽ không chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn đơn phương
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP.
Chúng tôi nhận được câu hỏi của khách hàng như sau: Tôi nộp đơn ly hôn nhưng tòa không đồng ý, tòa nói là vợ chồng tôi không có mâu thuẫn trầm trọng. Tôi muốn nộp đơn ly hôn nữa vì tôi đã không còn tình cảm với chồng, nhưng cán bộ nhận đơn nói tôi không được nộp lại ngay. Khi nào tôi mới được nộp lại đơn ly hôn?
-
Nguyên nhân tòa án không chấp nhận yêu cầu ly hôn đơn phương?
Tòa án chỉ giải quyết chấp nhận yêu cầu ly hôn đơn phương nếu tình trạng hôn nhân đã mâu thuẫn trầm trọng, không đạt được mục đích hôn nhân, có hành vi bạo lực gia đình.
Cụ thể Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền ly hôn đơn phương như sau:
Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Ngoài ra, căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về quyền yêu cầu ly hôn như sau:
Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Theo các quy định trên, tòa án có thể sẽ không chấp nhận yêu cầu ly hôn đơn phương trong các trường hợp sau:
- Không có căn cứ về hành vi bạo lực gia đình;
- Không có căn cứ về việc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;
- Người chồng yêu cầu ly hôn trong khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
-
Bị tòa án bác đơn ly hôn, khi nào được nộp lại đơn ly hôn?
Pháp luật hiện hành có quy định hạn chế quyền nộp đơn ly hôn của một người, nếu người đó đã bị tòa án bác đơn ly hôn trong một vụ án.
Cụ thể căn cứ điểm c Mục 10 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có quy định sau:
10. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
c. Cần chú ý là tuy pháp luật tố tụng chưa quy định, nhưng đối với người có đơn yêu cầu xin ly hôn mà bị Toà án bác đơn xin ly hôn thì sau một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới lại được yêu cầu Toà án giải quyết việc xin ly hôn.
Theo quy định trên, nếu một người nộp đơn ly hôn đơn phương nhưng bị tòa án bác yêu cầu ly hôn thì người đó sẽ phải chờ 1 năm kể từ ngày bản án của toà án có hiệu lực pháp luật mới có thể nộp lại đơn ly hôn đơn phương khác.