Cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư. Theo đó người nào xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân khác thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự.
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Hiến pháp năm 2013;
- Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Luật giao dịch điện tử năm 2015;
- Nghị định số 15/2020/NĐ-CP.
Cá nhân nào cũng có những thông tin riêng tư, cho dù thông tin đó quan trọng hay không nhưng người khác vẫn phải tôn trọng. Tuy nhiên với sự phát triển của công nghệ thông tin, cụ thể là các trang mạng xã hội, các thông tin cá nhân dễ dàng bị phát tán, dẫn đến bị người khác lợi dụng để xâm phạm danh dự, uy tín cá nhân.
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ quyền riêng tư của các cá nhân như sau:
-
Các quy định pháp luật bảo vệ quyền riêng tư
Hiến pháp 2013 đã có quy định tại Điều 21 như sau:
Điều 21
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.
Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định cụ thể hơn tại Điều 38 như sau:
Điều 38. Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Luật Giao dịch Điện tử năm 2005 cũng có quy định riêng bảo vệ quyền riêng tư trên không gian mạng như sau:
Điều 46. Bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn các biện pháp bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật khi tiến hành giao dịch điện tử.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Có thể thấy, nhiều đạo luật đã có những quy định để bảo vệ quyền riêng tư của các cá nhân. Và đi kèm theo đó là các chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền riêng tư của người khác dưới đây:
-
Chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền riêng tư
a. Phạt vi phạm hành chính
Việc xâm phạm đến thông tin cá nhân của người khác có thể bị thực hiện ở nhiều hình thức. Trong đó đáng chú ý là hành vi phát tán, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín. Hành vi này sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 3 Điều 102 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP như sau:
Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
g) Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;
b. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm quyền riêng tư của người khác. Người thực hiện hành vi trái pháp luật có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 159 Bộ luật Hình sự như sau:
Điều 159. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.