Các doanh nghiệp không được thỏa thuận phân chia khách hàng để hạn chế cạnh tranh trừ trường hợp cùng nhau thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Cạnh tranh năm 2018.
Các doanh nghiệp có cùng thị trường liên quan không được thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Các thỏa thuận phân chia thị trường, phân chia khách hàng, hạn chế nguồn cung hàng hóa để buộc người tiêu dùng phải mua hàng với giá cao đều có thể bị cấm.
-
Thỏa thuận phân chia khách hàng trên cùng thị trường liên quan được hay không?
Điều 11 Luật Cạnh tranh năm 2018 có quy định liệt kê các loại thỏa thuận bị coi là hạn chế cạnh tranh bao gồm:
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.
- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.
- Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
- Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
- Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.
- Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.
- Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Theo quy định trên, các doanh nghiệp bắt tay nhau thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Về nguyên tắc, Nhà nước khuyến khích duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, mục đích nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 12 Luật Cạnh tranh năm năm 2018, thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan là bị cấm. Bởi hệ quả của thỏa thuận này có thể dẫn đến xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
-
Khi nào thì thỏa thuận phân chia khách hàng được chấp nhận?
Về nguyên tắc thỏa thuận phân chia khách hàng là bị cấm. Tuy nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ nếu thỏa thuận đó có lợi cho người tiêu dùng. Cụ thể Điều 14 Luật Cạnh tranh năm 2018, một thỏa thuận nếu dẫn đến ít nhất 1 trong 4 hệ quả sau đây sẽ được miễn trừ có thời hạn:
- Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
- Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
- Thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá.
Cần lưu ý:
- Để được miễn trừ thì thỏa thuận giữa các doanh nghiệp phải có lợi cho người tiêu dùng.
- Việc miễn trừ là có thời hạn, nên có thể không còn được miễn trừ nếu tình hình thị trường có thay đổi theo hướng bất lợi cho người tiêu dùng hoặc không còn đáp ứng được ít nhất 1 trong 4 hệ quả nêu trên.