Các bên giao dịch thương mại có quyền thỏa thuận lựa chọn tòa án hoặc trọng tài thương mại để giải quyết nếu có tranh chấp thương mại
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
- Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.
Các bên có nghĩa vụ tôn trọng và tuân thủ hợp đồng đã giao kết. Trong khi đó, thỏa thuận lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là một phần của của hợp đồng, nên cần được tôn trọng.
-
Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Theo quy định pháp luật hiện hành, nếu các bên không có nội dung thỏa thuận phương thức giải quyết tranh chấp trong hợp đồng, thì khi phát sinh tranh chấp thực tế, các bên có quyền đưa vụ việc ra giải quyết tại tòa án.
Do vậy, nếu các bên muốn giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thì trước đó các bên phải có thỏa thuận sử dụng phương thức này ngay trong hợp đồng hoặc có thể trong một văn bản khác.
Cụ thể, căn cứ khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định:
Điều 5. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Ngoài ra, căn cứ Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 như sau:
Điều 16. Hình thức thoả thuận trọng tài
1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Theo các quy định trên, thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài có thể lập sau khi đã xảy ra tranh chấp. Đồng thời thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản và có thể độc lập với hợp đồng.
-
Tòa án có thụ lý đơn khởi kiện nếu có thỏa thuận trọng tài?
Về nguyên tắc, trong pháp luật dân sự, mọi thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Do vậy, căn cứ Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 như sau:
Điều 6. Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài
Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Theo quy định trên, khi các bên trong hợp đồng có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì các chủ thể khác phải tôn trọng, bao gồm cả tòa án. Theo đó, toà án phải từ chối thụ lý đơn khởi kiện, trừ khi thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
-
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được
Căn cứ Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu trong các trường hợp sau đây:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.
- Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Căn cứ Điều 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được nếu rơi vào các trường hợp sau:
- Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
- Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
- Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
- Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
- Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn… nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.