Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con, kể cả sau khi cha mẹ ly hôn. Việc nuôi dưỡng, thăm nom con sau khi ly hôn của người không trực tiếp nuôi con được thực hiện như thế nào?
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Hôn nhân và gia đinh năm 2014;
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Chúng tôi nhận được câu hỏi của khách hàng như sau: Vợ chồng tôi ly hôn, vợ được quyền trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên sau khi ly hôn, tôi bị gia đình vợ ngăn cản thăm con, mặc dù tôi vẫn cấp dưỡng nuôi con đầy đủ bằng cách lo toàn bộ tiền học cho con. Gia đình vợ cũ của tôi có được ngăn cản tôi thăm con không?
-
Trường hợp nào cha/mẹ bị hạn chế thăm nom, chăm sóc con?
Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con. Sau khi cha, mẹ ly hôn, thì người không trực tiếp nuôi con cũng vẫn có quyền thăm con và nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Cha, mẹ chỉ bị hạn chế quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con trong một số trường hợp nhất định có tác động xấu đến đời sống của con. Cụ thể các trường hợp được quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
Điều 85. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.
Với những trường hợp trên, nếu cha, mẹ sẽ bị hạn chế việc thăm nom, chăm sóc con từ 01 đến 05 năm. Tuy nhiên, chỉ tòa án mới có thẩm quyền quyết định các hạn chế này đối với cha, mẹ.
-
Có được cản trở cha/mẹ thăm nom, chăm sóc con?
Việc thăm nom, nuôi dưỡng con của cha/mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Ngoài ra, người trực tiếp nuôi con cũng có các quyền, nghĩa vụ nhất định đối với người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Như vậy, trên cơ sở mối quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ và con cái. Người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn vẫn được đảm bảo quyền thăm nom, chăm sóc con. Do vậy nếu không có quyết định của tòa án về việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con, thì không ai có quyền cản trở cha, mẹ không trực tiếp nuôi con đến thăm nom và chăm sóc con.
-
Mức xử phạt vi phạm hành chính
Hành vi cản trở người cha thăm nom và chăm sóc con trong câu hỏi cụ thể nêu trên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 56 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP như sau:
Điều 56. Hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.
Đối chiếu quy định trên, nếu Tòa án không có quyết định hạn chế việc thăm nom, chăm sóc con, mà gia đình người vợ sau ly hôn ngăn cản người cha thăm nom, chăm sóc con thì sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.