Vợ, chồng có thể thỏa thuận tài sản chung, tài sản riêng hoặc có thể phân chia tài sản theo công sức đóng góp của mỗi bên.
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Chúng tôi nhận được câu hỏi như sau:
3 năm trước khi cưới, chồng tôi có đứng tên mua một căn hộ. Khi cưới thì hai vợ chồng tôi cùng góp tiền trả nợ mua nhà, nhưng đến giờ vẫn chưa trả hết. Tôi muốn hỏi lỡ sau này ly hôn thì căn hộ đó có phần của tôi không?
Trong thời kỳ hôn nhân cũng như khi giải quyết ly hôn, vợ chồng có quyền phân chia tài sản, thỏa thuận đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng. Nếu không thỏa thuận được thì việc phân chia tài sản được giải quyết theo các nguyên tắc chung của pháp luật.
Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Căn cứ Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
- Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Theo các quy định trên, thông qua việc vợ và chồng cùng nhau góp tiền trả nợ mua căn hộ trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, một phần căn hộ là tài sản chung của vợ chồng.
Vì vậy:
- Nếu trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có lập thỏa thuận bằng văn bản có công chứng để chia căn hộ mua trả góp thì khi ly hôn, vợ chồng có quyền yêu cầu tòa án phân chia theo thỏa thuận này.
- Nếu không có thỏa thuận nêu trên thì khi ly hôn tòa án sẽ giải quyết phân chia căn hộ dựa trên công sức đóng của mỗi người trong việc tạo lập và duy trì căn hộ. Khi đó phần giá trị căn hộ mà người chồng đã trả trước khi kết hôn có thể được coi là phần tài sản riêng của người chồng.