Khi giải thể, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Trong đó đặc biệt là nghĩa vụ tài chính phải được thực hiện hoàn tất
CÔNG TY LUẬT TLT – LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
Căn cứ pháp lý:
- Luật Doanh nghiệp năm 2020;
- Nghị định số 01/2021/NĐ-CP.
Giải thể là một trong những thủ tục chấm dứt sự tồn tại của một doanh nghiệp. Khác với phá sản, giải thể không phải là tình trạng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Do vậy, khi muốn giải thể, doanh nghiệp cần phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ tài chính của mình trước khi thực hiện.
-
Điều kiện được giải thể doanh nghiệp
Căn cứ Điều 207 Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp bị giải thể trong trường hợp sau đây:
- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;
- Theo nghị quyết, quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của Hội đồng thành viên đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;
- Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp;
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác.
Theo các trường hợp trên cho thấy giải thể vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của doanh nghiệp:
- Quyền giải thể là trường hợp chủ sở hữu doanh nghiệp chủ động quyết định việc giải thể;
- Nghĩa vụ giải thể là trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Đối với quyền giải thể: Mặc dù doanh nghiệp có quyền, tuy nhiên để thực hiện quyền này, doanh nghiệp phải bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác và không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Trọng tài.
Đối với nghĩa vụ giải thể: Do không trải qua thủ tục giải thể thông thường, mà doanh nghiệp bị buộc phải giải thể. Do vậy, tại thời điểm bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể vẫn còn những nghĩa vụ về tài chính, nên người quản lý có liên quan và doanh nghiệp phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.
-
Đòi nợ doanh nghiệp đã giải thể được không?
Khi tiến hành giải thể doanh nghiệp, doanh nghiệp phải nộp hồ sơ thông báo việc giải thể. Mục đích nhằm thông báo cho các cơ quan Nhà nước và các chủ nợ biết về việc giải thể để các cơ quan Nhà nước và các chủ nợ tiến hành các thủ tục đòi nợ.
Cụ thể, Điều 210 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định khi thông báo giải thể, doanh nghiệp phải nộp bộ hồ sơ như sau:
Điều 210. Hồ sơ giải thể doanh nghiệp
1. Hồ sơ giải thể doanh nghiệp bao gồm giấy tờ sau đây:
a) Thông báo về giải thể doanh nghiệp;
b) Báo cáo thanh lý tài sản doanh nghiệp; danh sách chủ nợ và số nợ đã thanh toán, gồm cả thanh toán hết các khoản nợ về thuế và nợ tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động sau khi quyết định giải thể doanh nghiệp (nếu có).
2. Thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần, thành viên Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty, chủ doanh nghiệp tư nhân, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, thành viên hợp danh, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của hồ sơ giải thể doanh nghiệp.
3. Trường hợp hồ sơ giải thể không chính xác, giả mạo, những người quy định tại khoản 2 Điều này phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết, số thuế chưa nộp, số nợ khác chưa thanh toán và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về những hệ quả phát sinh trong thời hạn 05 năm kể từ ngày nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Theo quy định trên, hồ sơ giải thể doanh nghiệp khi nộp lên cơ quan đăng ký kinh doanh phải bảo đảm chính xác. Việc doanh nghiệp vẫn còn khoản nợ, nhưng lại thông báo không có nợ để được giải thể là không trung thực.
Do vậy, cho dù doanh nghiệp đã được cập nhật tình trạng pháp lý là giải thể nhưng các chủ nợ chưa được thanh toán có quyền yêu cầu doanh nghiệp thanh toán nợ cho mình. Đồng thời, các cá nhân nêu tại khoản 2 Điều 210 Luật Doanh nghiệp năm 2020 phải liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp vẫn không thanh toán, chủ nợ có thể khởi kiện đến Toà án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.